Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Than bán dạo


bởi Hiệp Bùi

Duy Thức (Người Việt) -  Bỗng nhiên giá gaz đã tăng vũ bão. Trước kia dân thành phố đun nấu bằng bếp dầu hôi hay lò củi. Các bà nội trợ mua củi thước tức là củi chặt khúc xếp ngang một thước, cao một thước. Khi mang về phải có khi phải thuê người chẻ nhỏ ra mới dùng được. Sau này một phần đun củi khói dữ quá, một phần không còn nhiều gỗ tạp làm củi nữa nên dân thành phố xoay qua dùng bếp điện, bếp dầu hôi. 

Bếp điện hay bị cháy dây may so, bếp dầu hôi xông mùi dầu quá nên dần dần dân thành phố chuộng bếp ga. Mặc dù thường xảy ra nhiều vụ cháy nổ gây chết người, nhất là bếp ga mini dùng nhiều lần hay các cơ sở sang chiết ga lậu không an toàn, bếp ga vẫn ngày càng thông dụng. Ngay cả miền quê, để bếp nước sạch sẽ hơn, nhiều gia đình cũng dùng bếp ga thay vì bếp củi, bếp trấu cổ truyền, mặc dù những nguyên liệu rẻ tiền này có sẵn chung quanh.


Xe chở than bán dạo trên đường phố Sài Gòn. (Hình: Duy Thức/Người Việt)

Khi mọi người đã quen với bếp ga thì ga tăng giá. Năm ngoái ga tăng từng tháng. Trong một thời gian ngắn từ Tết Tây đến giờ, ga tăng giá bốn lần, tăng 100,000 đồng và chỉ một lần hạ giá... 10,000 cho vui. Hiện nay giá 477,000 tức gần nửa triệu đồng cho một bình ga mười hai ký. 

Giá ga tăng khiến đa số gia đình không kham nổi, thói quen đun nấu phải thay đổi. Vì thế mọi người lại quay sang các loại bếp khác. 

Bếp điện không giống xưa nữa mà là bếp từ. Mua một bếp từ mới vài trăm ngàn đến vài triệu và còn tiền điện mỗi tháng. Ðiện cũng tăng giá mắc hơn xài gas nữa, bếp từ lại đòi hỏi dùng nồi chảo thích hợp nên không phổ biến. 

Chẳng lẽ lại bỏ bếp điện xài lò đất nung ba ông táo như xưa sao? Kế bên nhà tôi có ông Tư già đạp xích lô. Từ xưa tới nay gia đình ông đều nấu nướng bằng loại lò sắt cuốn lại thay vì đất nung. Cái bếp đó có lẽ của ông ta tự chế ra và không thấy nhà ông dùng gas hay lò điện gì cả. 

Bà Tư ngồi đặt bếp lò ngay trước nhà chụm củi, chiếc xe cũ kỹ gác bỏ dựa tường, nơi đó ông Tư mua gỗ tạp về sắp dựa tường trữ sẵn cả vài thước. Các thứ cây ván người ta làm nhà bỏ ra, ông đều lượm về hay mua rẻ chặt ngang từng khúc để đút vào lò cho dễ. Rất hiếm nhà đun củi vì thật ra củi hiện nay không phải dễ kiếm mua. 

Dân miền Bắc chuộng than tổ ong. Ðó là than cám trộn với mùn cưa và bùn phơi khô đóng thành bánh có nhiều lỗ tròn trông như tổ ong. Loại này khi đốt phát ra khí độc nên nhiều người mùa lạnh đóng cửa đốt than tổ ong sưởi đã bị ngột khí chết. 

Ngay cả ở những chung cư mới xây, người ta chẳng ngại gì mà bê các bếp than tổ ong ra đun nấu ngoài hành lang khói mù mịt. Miền Nam thường là hàng ăn cũng dùng than tổ ong. Lý do loại than này âm ỉ nên đun nấu hàng nhiều tiếng thì lợi. Tuy nhiên đa số gia đình thích than thường hơn. 

Vì thế lúc này xuất hiện những xe ba gác nhỏ bán than rong giống như rau cỏ trái cây bán rong. Người bán vừa đẩy xe len lỏi vào các con hẻm nhỏ vừa cất tiếng rao hàng. 

Anh bán than có đến năm mươi dư, dáng người cao gầy, gân guốc đang rũ mấy cái bao đệm lớn, bụi than bay túa ra đường. Trong xe chất ngay ngắn toàn những khúc than lớn cả. 

Tôi nhìn kỹ đống than: 

-Tôi muốn mua vài ký than vụn để bỏ vào các chậu lan ở nhà. Và cân một bao than để nấu ăn. Có phải than đước Cà Mau không! 

Than đước tốt nhất trong các loại than vì cứng chắc, cháy lâu và ít khói. Mùi khói cũng thơm, không khó chịu như các loại than khác. 

Cà Mau có hàng chục xóm chuyên hành nghề hầm than. Khắp nơi đều có các khu vực hầm than: Bình Thuận, Bình Ðịnh,... Những nơi gần rừng có khi tụ tập hàng trăm lò đốt than. Ngày trước cây bị đốn còn lại gốc, người nghèo bứng gốc ấy về hầm than. Chỉ cần đi từ sáng tới chiều được một xe củi đẩy về. Bây giờ đốn hạ cây nhiều quá, rừng bị đẩy lùi. Ði thật xa hàng tuần, người thợ chưa kiếm đủ xe củi về hầm than. 
Ðốt than đều là dân nghèo. Khói lò than hít vào độc, rừng cây bị tàn phá, giá một ký than hầm xong bán cho thương lái chỉ trên dưới một ngàn đồng một ký. Nhưng do không có vốn liếng, đất đai, không nghề chuyên môn nên những người dân này vẫn phải bám vào nghề hầm than để mưu sinh. 

Rừng Cà Mau bị dân chúng đua nhau vào ăn ong, bắt rùa, nhất là đốt than. Các khu rừng phòng hộ đều bị tấn công. Vào mùa Ðông, giá than lại tăng lên khiến người ta càng hăng hái phá rừng lấy gỗ đốt than. 

Nhu cầu về than ngày càng tăng nên xuất hiện than từ nguồn gốc cây trồng. 

Anh bán than nói: 

-Sau 75, cả nhà tôi đều bị đưa đi kinh tế mới ở Dương Minh Châu hết, cha mẹ tôi làm nghề hầm than kiếm ăn. Về sau họ mất rồi, tôi không biết làm gì sống, cũng nối nghề hầm than từ đó. Bán than kiếm lời khá hơn hầm than nhưng cuộc sống thành phố đắt đỏ. Tính ra cũng vậy... 

Ngày trước tôi đi bộ qua rừng cao su Dầu Tiếng. Nơi này có cướp thường rình chặn bộ hành. Có lần tôi gặp hai tên cướp. Tôi không sợ và cũng chẳng mang gì theo nên chúng không làm gì. 

Lúc đó rừng rậm hoang dã, người bị đưa lên kinh tế mới tưởng chừng không có đường về. Có khi đói cũng thành cướp. Chúng tụ năm, ba tên ở bìa rừng. Người đi chợ phải rủ nhau thành nhóm, thủ sẵn dao rựa đề phòng rồi mới dám đi. Ai cũng biết chúng thường ngồi trên xe trâu phục sẵn bên đường mòn. 

Sau này dân Dầu Tiếng vào làm sở cao su nên cuộc sống cũng đỡ khó nhọc. Nhà cửa trường trại mọc lên nhiều. 

Tôi cầm khúc than đen nhánh, hỏi: 

-Ðây là than keo hay than tràm? 

Anh bán than trả lời: 

-Bác cứ nhìn than thì biết. Toàn củi tốt cả. Chúng tôi quen với những người trông coi sở cao su Dầu Tiếng. Các loại cao su lớn già, ít nhựa, họ cưa bán củi hay bán cho các trại gỗ ở Sài Gòn đóng bàn ghế. Tôi quen mua họ các gốc cao su, mà các loại cây khác để hầm than phần nhiều là gỗ nung. 

Cũng có khi vườn cây ăn trái bị phá bỏ, vườn nhãn cỗi chẳng hạn, chủ lò than đến mua nguyên vườn về làm nguyên liệu hầm than. 

Tôi cười: 

-Tôi thấy cây than to như thế này, phần gỗ rất mắc, vả lại nhà nước cấm phá rừng để bán gỗ. Tôi nghi anh quá! 

Anh ta cười xòa: 

-Có nhiều nơi rừng bụi mịt mù, mình chặt vài cây ăn thua gì? Kiểm lâm cũng thông cảm cho dân nghèo! 

-Anh hầm than toàn cây gỗ tốt và lớn nếu số gỗ này đem bán cho xưởng gỗ ở Sài Gòn bộn tiền 

-Chở gỗ lậu hay bị bắt lắm. Còn đẩy xe than chạy từ Tây Ninh, Dầu Tiếng về thì không ai để ý cả. 

Vừa nói anh ta chọn than bỏ vào bao cân cho tôi hai mươi ký than chắc và năm ký than vụn. 

-Than tốt bảy ngàn một ký, than vụn sáu ngàn. 

Anh bán than nói: 

-Nghề bán than này đang trở nên thịnh. Nhiều người đốt than, nhiều người chở than đi bán. Nhiều công ty ra đời chuyên bán than đá, than xô... Dân Sài Gòn sợ lò gas hay cháy nổ nên trở lại xài lò nung than đá và lò đốt than củi thường. Tôi cũng giao mối cho mấy cửa hàng tạp phẩm quen ở chợ Hùng Vương chuyên sấy cá khô chỉ lấy giá năm ngàn. 

Bán than rong toàn nam giới, không thấy phụ nữ làm nghề lấm lem bụi bẩn này. Anh bán hàng từ Dương Minh Châu xuống thành phố mướn nhà ở bến xe Miền Ðông sống một mình. Cứ hết một xe than, anh lại quay về Dầu Tiếng lấy chuyến khác 

Giá ga, giá điện cứ tăng, rừng cứ cạn và anh bán than vì thế sống cũng tạm qua ngày.


Làng than củi Đại Thành hồi sinh


Sau những thăng trầm, làng nghề làm than hầm ở xã Đại Thành, TX.Ngã Bảy bắt đầu hưng thịnh trở lại do nguồn nguyên liệu, đầu ra của sản phẩm ổn định. Đây cũng là điều kiện để Đại Thành phát triển làng nghề truyền thống, tạo thu nhập ổn định cho hàng chục gia đình ở địa phương.
* Thách thức
Gia đình ông Chung Văn Mao, ở ấp Đông An A, xã Đại Thành dù nhiều lúc giá than không ổn định, nhưng vẫn gắn bó với nghề làm than từ khi nghề này mới vừa nhen nhóm. Một năm, gia đình ông Mao hầm khoảng 10 lần than, sau khi trừ các khoản chi phí từ củi hầm than, thuê mướn công lao động, củi đốt lò… cũng còn thu nhập trên 30 triệu đồng. Với số tiền này, cùng với 4 công ruộng đã giúp gia đình ông có cuộc sống ổn định. Theo ông Mao, nghề hầm than vất vả, lợi nhuận không cao, nhưng cho thu nhập thường xuyên, đảm bảo chi phí để trang trải cuộc sống hàng ngày.
Hình thành và tồn tại hàng chục năm qua, làng nghề hầm than ở xã Đại Thành trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm bởi tình trạng khan hiếm nguồn nguyên liệu. Ông Mao kể: “Có lẽ do chính sách cấm khai thác vận chuyển gỗ mà những năm trước, có lúc không còn tàu, ghe chuyên chở củi đến đây cung cấp, khiến cho nhiều lò than ở đây phải ngưng hoạt động, hoặc chỉ làm cầm chừng”.
Hiện nay, toàn xã Đại Thành có 23 hộ dân tham gia nghề hầm than củi, với số lượng 36 lò, tăng 6 hộ, 8 lò so với 5 năm trước, tập trung chủ yếu ở ấp Đông An và Đông An A của xã.
“Tiền trao cháo múc” đó là quy tắc thông thường trong các hoạt động mua bán các sản phẩm hàng hóa, nhưng đối với than lại khác. Thương lái mua than không trả tiền ngay, mà sau khi bán than xong họ mới thanh toán tiền cho chủ lò. Sau nhiều năm làm than, có lúc ông Lương Văn Phòng, cùng ấp Đông An A phải “treo lò” do không còn vốn để mua nguyên liệu. Ông Phòng kể: “Trở lại nghề này được 5 năm, trước đây thương lái đến mua than thiếu rồi bỏ trốn làm cho gia đình rơi vào cảnh khốn đốn. Không tiền mua củi hầm than, có một thời gian tôi phải chuyển sang nghề khác để mưu sinh”. Năm vừa rồi, cũng nhờ hai lò than hầm, ông Phòng có mức thu nhập khoảng 60 triệu đồng.
Làm than đã trở thành một làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, do khói, bụi, nên nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Chủ tịch UBND xã Đại Thành Lê Hùng Chiến, cho biết: “Đây là nghề thủ công truyền thống, xã đang khuyến khích vì góp phần rất lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết một lượng lớn lao động phổ thông tại địa phương. Song, để giảm nguy cơ bệnh nghề nghiệp, ảnh hưởng môi trường tại làng nghề đốt than, xã kết hợp với Phòng TN-MT thị xã tiến hành kiểm tra, đánh giá tác động môi trường của làng nghề để có cách hạn chế. Đồng thời, tuyên truyền việc nâng cao ý thức sử dụng dụng cụ bảo hộ lao động cho người dân trong làng nghề.
* Nhiều triển vọng
Tính từ lúc chất củi vào lò cho đến khi có được than thành phẩm, thời gian kéo dài khoảng một tháng. Trong thời gian này, chủ lò hầu túc trực thường xuyên khoảng 20 ngày để canh và giữ lửa, sau đó “bế” (để trong lò) khoảng 10 ngày cho than nguội mới đem ra bán. Theo ông Mao, khâu chất củi vào lò để hầm và lấy than có thể thuê mướn nhân công làm, nhưng khâu đun củi đốt lửa hầm than rất quan trọng, chủ lò phải theo dõi thường xuyên lượng khói bốc lên trên ống khói để điều tiết lượng củi đốt cho phù hợp, nếu không than bị bể thì coi như mẻ đó mất trắng. Đặc biệt, nhờ cải tiến hình thức chất củi theo chiều ngang đã tăng thêm sức chứa củi trong hầm lò, thay vì sử dụng chiều đứng như trước. Một lò than có thể hầm khoảng 50 m3 củi tươi và cho các chủ lò thu về được khoảng 10-11 tấn than thành phẩm. Nguyên liệu củi phục vụ nhu cầu đốt than khá đa dạng, không chỉ có cây đước, một số loại cây ăn trái, cây tạp như bạch đàn, nhãn, xoài… nhưng củi đước luôn được chủ lò than ưa chuộng, dù giá cao hơn các loại củi khác. Ông Phòng cho biết thêm: “Hầm củi đước, than đạt chất lượng, giá bán cao, thay vì sử dụng bạch đàn phải tốn thêm thời gian, công sức lột vỏ mới đưa vào hầm được”.
Từ đầu năm đến nay, giá than đước luôn ổn định ở mức từ 5.000-7.000 đ/kg. Mặc dù giá củi đước nguyên liệu cao, từ 1-1,2 triệu đồng/m3 nhưng các chủ lò vẫn có lãi từ 3-5 triệu đồng/mẻ. Ông Phòng bộc bạch: “Than làm ra không sợ ế, dù mắc hay rẻ cũng có người mua, nếu giá thấp có thể vựa lại trong lò chờ giá. Chưa hết, chúng tôi còn nghe nói than đã được xuất khẩu sang nước ngoài nên người làm than ở đây rất yên tâm sản xuất”. Ông Lê Hùng Chiến, Chủ tịch UBND xã Đại Thành cho biết thêm, nhằm củng cố lại làng nghề truyền thống, trước mắt xã thành lập những tổ hợp tác để từng bước hướng người làm nghề quen mô hình kinh tế tập thể. Sau khi sản xuất ổn định, sẽ tiến tới xây dựng HTX để thuận lợi trong quản lý môi trường, hỗ trợ vốn, xây dựng thương hiệu, ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm…
Bài, ảnh: NGUYỄN NGUYỄN